Bài thơ đầu tiên của tôi

 

  
TÔI XIN THÚ NHẬN RẰNG TÔI ĐÃ SỐNG
 (Confieso que he vivido)

Bài thơ đầu tiên của tôi

Bây giờ tôi sẽ kể câu chuyện về các loài chim. Trên hồ Budi, thiên nga bị người ta săn lùng một cách tàn nhẫn. Họ leo lên thuyền chầm chậm rồi chèo thuyền về phía chúng rất nhanh và rất nhanh ... Thiên nga, giống như hải âu lớn, bay kém, trước tiên chúng phải chạy trên mặt nước. Chúng giang đôi cánh rộng của mình. Khi đó chúng bị người ta tiếp cận và dùng gậy bắt.

Người ta mang cho tôi một con thiên nga sắp chết. Đó là một loài chim đẹp mà tôi chưa từng thấy trên thế giới – một con thiên nga có cổ màu đen. Một con tàu tuyết với cái cổ màu đen tuyệt đẹp, như thể bị quấn vào một chiếc vớ lụa đen. Chim có mỏ màu cam, và mắt màu đỏ.

Đấy là một nơi gần biển, ở Puerto Saavedra, Imperial del Sur.

Người ta đưa cho tôi con chim đã sắp chết. Tôi rửa vết thương cho nó, đẩy bánh mì và cá vụn vào cổ họng. Nó nôn ra mọi thứ. Nhưng tôi vẫn tiếp tục chữa vết thương cho nó, thiên nga bắt đầu nhận ra rằng tôi là bạn của nó. Và tôi nhận ra rằng nó sắp chết vì buồn nhớ. Sau đó, nâng con chim nặng trên tay, tôi mang nó dọc theo các con đường đi ra sông. Thiên nga bơi một chút – gần bên cạnh tôi. Tôi muốn nó săn cá và chỉ cho nó xuống đáy, nơi có những con cá bạc màu lướt qua giữa những viên sỏi, trên cát. Nhưng con chim đưa đôi mắt buồn nhìn về phía xa xa.

Cứ như vậy – hằng ngày, trong chừng hai mươi ngày hoặc thậm chí nhiều hơn, tôi mang nó ra sông, và sau đó đưa về nhà. Con thiên nga cao gần bằng chiều cao của tôi. Một hôm chim tỏ ra vẻ uể oải, dù tôi cố gắng cho chim bắt cá nhưng nó vẫn lờ đờ – tôi cầm nó trên tay để đưa về nhà. Tôi cảm thấy dường như có một dải băng dài đã mở ra và dường như có một bàn tay đen chạm vào mặt tôi. Đó là cái cổ cong dài gục xuống. Do đó tôi hiểu được rằng thiên nga không hót khi nó chết.  

Mùa hè đang thiêu đốt ở Cautín. Đốt cháy bầu trời và lúa mì. Trái đất muốn phục hồi sau một giấc ngủ dài. Những ngôi nhà ở đây không thích nghi với mùa hè và cũng không thích nghi với mùa đông. Tôi rời làng và bước đi. Tôi bị lạc trên ngọn đồi Ñielol. Tôi một mình, túi của tôi chứa đầy bọ cánh cứng. Trong hộp của tôi có một con nhện lông. Không thể nhìn thấy bầu trời trên cao. Rừng Selva luôn ẩm ướt, đế giày tôi trượt nhẹ, ở đâu đó một con chim đột nhiên kêu lên – đấy là chim chukao dự báo. Một điềm báo khủng khiếp trỗi dậy từ dưới chân và ôm lấy tôi. Hoa Copihue đông cứng bởi những giọt máu nên hầu như không thể nhìn thấy rõ. Tôi chỉ là một sinh vật nhỏ bé dưới những cây dương xỉ khổng lồ. Một con chim bồ câu rừng vỗ cánh khô khốc ngay bên miệng tôi. Và phía trên tôi, tiếng chim khàn khàn. Tôi tìm đường đi thật khó khăn. Đã muộn rồi.

Bố tôi vẫn chưa đến. Ông sẽ đến vào lúc ba hoặc bốn giờ sáng. Tôi đi lên lầu vào phòng của tôi. Tôi đọc Salgari. Và đột nhiên mưa như trút nước. Trong nháy mắt, đêm và mưa che khuất cả thế giới. Ở đó tôi chỉ có một mình, trong cuốn sổ tay số học của tôi, tôi viết những câu thơ. Tôi thức dậy rất sớm vào sáng hôm sau. Mận vẫn xanh. Tôi chạy lên ngọn đồi. Tôi mang theo mình một gói muối nhỏ. Tôi trèo lên cây, tìm một chỗ ngồi thoải mái, cẩn thận cắn một quả mận rồi lấy ra và rắc muối lên. Sau đó ăn. Và như vậy – đến cả trăm quả mận. Tôi biết rằng như thế là quá nhiều.

Ngôi nhà của chúng tôi bị thiêu rụi và ngôi nhà mới này chứa đầy bí ẩn đối với tôi. Tôi trèo hàng rào và nhìn sang nhà hàng xóm. Không có ai ở đó. Tôi trải các tấm ván, đằng sau chúng cũng chẳng có gì. Chỉ có những con nhện đáng thương kia. Phía cuối sân là nhà vệ sinh. Những cái cây xung quanh đó có nhiều sâu. Trên cây hạnh nhân có những quả màu trắng. Tôi biết cách bắt những con ruồi trâu mà không làm tổn thương chúng bằng cách dùng một chiếc khăn tay. Giữ chúng trong khăn một chút rồi đưa lên tai. Thật tuyệt vời!

Như một nhà thơ nhỏ cô đơn, một đứa trẻ mặc quần áo đen ở vùng biên giới mênh mông đầy sợ hãi. Cuộc sống và những cuốn sách tiết lộ dần những bí mật khó khăn cho tôi từng bước.

Tôi sẽ không bao giờ quên những gì tôi đã đọc trong buổi tối qua: một quả mít đã cứu mạng Sandokán và đồng đội của anh ta ở Malaysia xa xôi. 

Tôi không thích Búfalo Bill vì anh ta giết người bản địa. Nhưng anh ta phi ngựa thật tuyệt vời. Những thảo nguyên và những chiếc lều hình nón của người da đỏ thật đẹp biết bao!

Người ta thường hỏi tôi rằng tôi đã viết bài thơ đầu tiên khi nào, thơ của tôi ra đời ra sao.

Tôi cố gắng nhớ lại. Ngày còn nhỏ, khi tôi mới học viết, đột nhiên cảm thấy một sự xúc động mãnh liệt và tôi liền viết ra mấy dòng, một số có vần điệu, những lời này có vẻ xa lạ, không giống với những lời nói thường ngày. Tôi đã chép lại trên tờ giấy trắng và bị chi phối bởi một cảm giác khác thường mà trước đây tôi chưa từng biết đến, vẻ như u sầu, vẻ như buồn bã. Đó là bài thơ tôi viết tặng mẹ – người mẹ kế, thiên thần hộ mệnh của tuổi thơ tôi. Tôi đã không thể đánh giá chất lượng của tác phẩm đầu tay này và tôi đưa bài thơ cho bố mẹ tôi. Họ ngồi trong phòng ăn, với giọng trầm trầm, những câu chuyện của bố mẹ như những dòng sông cách ngăn giữa thế giới của trẻ em và người lớn. Vẫn còn run rẩy từ những xúc cảm đầu tiên, tôi đưa cho họ một mảnh giấy. Bố tôi lơ đãng cầm lấy, lơ đãng đọc nó, và không kém phần lơ đãng trả lại cho tôi và hỏi:

- Con chép lại từ đâu vậy?

Và ông lại lặng lẽ nói chuyện với mẹ về những vấn đề quan trọng và xa xôi của ông.

Dường như bài thơ đầu tiên của tôi đã ra đời như vậy và tôi đã có được một ví dụ đầu tiên về sự phê bình văn học cẩu thả.

Trong khi đó, tôi vẫn tiến về phía trước để tìm hiểu thế giới – người hoa tiêu cô đơn trong một biển sách hỗn độn và vô tận. Sự thèm đọc sách không giảm bớt ngày cùng như đêm. Trên bờ biển, ở Puerto Saattedra nhỏ bé, tôi tìm thấy một thư viện thành phố và một nhà thơ già, don Augusto Winter, người đã ngạc nhiên trước sự khao khát đọc sách của tôi. “Anh đã đọc nó chưa?” – ông hỏi tôi, rồi đưa cho tôi một cuốn sách mới của Vargas Vila, hoặc Ibsen, hoặc Rocambole. Giống như một con đà điểu, tôi nuốt bừa tất cả.

Vào thời điểm này, một phụ nữ cao dong dỏng, thường mặc váy dài và giày gót thấp, vừa đến Temuco. Đây là giám đốc mới của trường nữ sinh. Cô ấy đến từ một thành phố miền nam, từ tuyết của eo biển Magellan. Cô ấy tên là Gabriela Mistral.

Tôi thấy cô ấy đi bộ trên đường phố trong bộ quần áo dài và tôi thấy sợ cô ấy. Nhưng khi người ta đưa tôi đến gặp cô ấy, tôi nhận ra rằng cô tốt bụng và rất dễ thương. Khuôn mặt da ngăm đen của cô ấy chứng tỏ dòng máu bản địa chiếm ưu thế, giống như bình rượu Araucania xinh đẹp, lấp lánh những vệt trắng khi cô ấy cười vui làm cho căn phòng trở nên sáng sủa hơn.

Tôi còn quá trẻ để mà làm bạn với cô ấy, tôi quá rụt rè và tự ti. Tôi chỉ gặp cô ấy một vài lần. Nhưng điều này là khá đủ – đi đâu tôi cũng mang theo những cuốn sách mà cô ấy tặng. Đấy luôn là những cuốn sách của các nhà văn Nga mà cô ấy coi là hiện tượng đáng chú ý nhất trong văn học thế giới. Tôi có thể nói rằng Gabriela đã giới thiệu cho tôi một thế giới quan nghiêm túc và cởi mở vốn là đặc trưng của các nhà văn Nga, và rằng Tolstoy, Dostoevsky, Chekhov trở thành niềm say mê sâu sắc nhất của tôi. Và họ tiếp tục đồng hành cùng với tôi.
= = 
Chú thích những tên riêng trong bài:

*Emilio Salgari (1862 – 1911) – Nhà văn Ý 
*Sandokán – là nhân vật chính của những tiểu thuyết phiêu lưu mà Emilio Salgari là tác giả
*Búfalo Bill là biệt danh của William Frederick Cody (1846 – 1917) – Doanh nhân, người nổi tiếng của giới giải trí Mỹ
*“Đó là bài thơ tôi viết tặng mẹ – người mẹ kế, thiên thần hộ mệnh của tuổi thơ tôi”. Mẹ đẻ của nhà thơ, như ông đã viết trong bài “Thời thơ ấu và thơ ca”, rằng ông sinh ngày 12 tháng 7 năm 1904, một tháng sau đó mẹ ông đã chết vì bệnh lao phổi.
*Augusto Winter Tapia (1868-1927) là một thủ thư và nhà thơ người Chilê
*José María Vargas Vila (1860 – 1933) – Nhà văn Colombia
*Henrik Ibsen (1828 – 1906) – Nhà soạn kịch người Na Uy
*Rocambole – Nhân vật chính của loạt tiểu thuyết phiêu lưu và hình sự trong thế kỷ 19 của nhà văn Pháp Pierre Alexis Ponson du Terrail (Ponson du Terrail, 1829 – 1871), Rocambole là tên gọi chung cho những nhà thám hiểm.
*Gabriela Mistral (1889 – 1957) – Nhà giáo dục, nhà ngoại giao, nhà thơ người Chilê đoạt giải Nobel Văn học năm 1945
*Lev Tolstoy (1828 – 1910) – Nhà văn Nga
*Fyodor Dostoyevsky (1821 – 1861) – Nhà văn Nga
*Anton Chekhov (1860 – 1904) – Nhà văn Nga

Chờ đợi

 


CHỜ ĐỢI


Có những ngày hãy còn ở trên đường
những ngày này hãy còn chưa chuẩn bị
như bánh mì, thực phẩm, như chiếc ghế
từ trong xưởng thợ làm ra
có những nhà máy của những ngày xa
nơi những người thợ cân đong, đo đếm
theo từng ý thích mà xây dựng
trong ngày nắng cũng như ngày mưa
và có một lần đến gõ cửa nhà ta
để tặng ta quả cam chín mọng
hoặc từ sau ngưỡng cửa bắn vào ta.

*** 

Chào!

 


CHÀO!


Mỗi buổi sáng ta nói lời : Chào!
với mỗi người ta gặp
đấy là tấm danh thiếp
dù giả dối hay chân thật của ta
là tiếng chuông để tất cả nghe ra
ta ở đây – Chào! – nghĩa là ta có mặt
ta chào người này, kẻ khác
người có dao
kẻ cầm thuốc độc
Chào! - đấy là ta
ta như nhau nhưng không chịu đựng
ta yêu nhau, nhưng không giống
mỗi người có đam mê, công việc của mình
ta vui mừng được trở thành (hoặc không?)
cần biết bao nhiêu bàn tay xếp đặt
biết bao nhiêu bờ môi sắp xếp –
Chào!
thời gian còn quá ít
Chào!
có điều gì nhận biết –
Chào!
ta mải mê theo công việc
nếu có chút gì còn lại
chút gì còn lại sau ta
Chào!

***

Bóng

 


BÓNG


Tôi hãy còn chưa quay về
hãy còn chưa quay trở lại
tôi vẫn hãy còn đang ra đi
trên thế giới này lửa cháy
bên trong tĩnh mạch này
máu của tôi đang chảy
tôi không thể nào quay lại
trở về với bản thân mình
tôi nhìn thấy con người, cây cối
kí ức của lá, của cành
thấy lời chào trong đôi mắt mùa xuân
và cái đuôi của chó.

Thấy yên lặng của ngôi nhà đang mở
cho giọng nói của tôi, không làm đổ bức tường
bằng tiếng súng hay tiếng đá kêu vang
bước chân tôi lang thang trên mặt đất
tôi sờ vào dây trường xuân quấn chặt
cổng vòm bằng đá hoa cương
tôi ở trong đồ vật, giữa khoảng không
bởi vì bóng của tôi nơi này không thơ thẩn
mà thực ra – tôi là bóng của người du lãng.

*** 

Bài thơ suông mừng đám cưới

 


BÀI THƠ SUÔNG MỪNG ĐÁM CƯỚI

 

Đôi mắt của em buồn vô hạn

tựa như hai thân thể rã rời.

Thế còn bao nỗi đau xót chưa nguôi

giấu trong bàn tay em đờ đẫn!

 

Ta gặp nhau. Anh cảm thấy nhiều hơn

trong cuộc đời của anh hơi ấm

từ đó mà em tin chắc chắn

rằng anh cũng buồn vô hạn, giống như em… 


Trăng

 


TRĂNG

Khi tôi sinh ra mẹ tôi đã qua đời
Nỗi đau thiêng liêng đợi chờ điều tai họa.
Trong cơ thể mẹ một ngôi sao lấp lóa
Tôi sinh ra bằng cái chết của mẹ tôi.

Vây quanh tôi
một dòng sông vô hình
nụ cười của tôi muôn đời che khuất bởi
một nỗi buồn như giọng hát lên.
Mẹ trùm lên bình minh của tôi, mệt mỏi
bằng mùa lá rụng của cuộc đời mình.
Màu vàng của bàn tay mẹ khi hấp hối
giữa hồn tôi thành màu của ánh trăng.
Bởi thế mà cánh đồng buồn bã
tôi nhìn qua khung cửa sổ nhà mình
Mẹ ươm tôi thành bông lúa
còn màu vàng, màu của ánh trăng thanh…
 
LUNA
 
Cuando nací mi madre se moría
con una santidad de anima en pena.
Era su cuerpo transparente, Ella tenía
bajo la carne un luminar de estrellas.
Ella murió. Y nací.
                      Por eso llevo
un invisible río entre las venas,
un invencible canto de crepúsculo
que me enciende la risa y me la hiela.
 
Ella juntó a la vida que nacía
su estéril ramazón de vida enferma.
El marfil de sus manos moribundas
tornó amarilla en mí la luna llena.
Por eso - hermano - esta tan triste el campo
detrás de las vidrieras transparentes.
…Esta luna amarilla de mi vida
me hace ser un retoño de la muerte.

Mãi mãi

 


MÃI MÃI
 
Với những người trong quá khứ
tôi không hề ghen.
 
Em cứ đến với cả trăm đàn ông
đứng ở sau lưng mình
với cả nghìn đàn ông
trong đôi chân, trong ngực
em hãy đến như dòng sông
đầy những người chết đuối
mà biển tức giận tìm thấy
bọt vĩnh cửu, thời gian!
 
Em hãy mang tất cả họ theo mình
đến nơi mà tôi đợi chờ em
chúng mình cô đơn mãi mãi
luôn chỉ có em và tôi
một mình trên trái đất này
bắt đầu cuộc đời mới!
 
Siempre
 
Antes de mí
no tengo celos.
 
Ven con un hombre
a la espalda,
ven con cien hombres en tu cabellera,
ven con mil hombres entre tu pecho y tus pies,
ven como un río
lleno de ahogados
que encuentra el mar furioso,
la espuma eterna, el tiempo!
 
Tráelos todos
adonde yo te espero:
siempre estaremos solos,
siempre estaremos tú y yo
solos sobre la tierra,
para comenzar la vida!
 

Tiếng cười của em

 


TIẾNG CƯỜI CỦA EM

Cứ lấy đi bánh mì, nếu như em muốn
và lấy đi không khí của tôi, nhưng
đừng lấy đi tiếng cười của em. 

Đừng lấy đi đóa hoa hồng
và hoa cúc mà em thường hái
và dòng nước đột nhiên tuôn chảy
trong niềm vui rất sảng khoái của em
và cả con sóng bạc đột nhiên
con sóng này sinh ra từ em đó.

Anh trở về từ chông gai nghiệt ngã
đôi mắt của anh mệt mỏi, lừ đừ
vì lẽ đó đôi khi anh nhìn ra
rằng trái đất này không hề thay đổi
nhưng khi tiếng cười em cất lên sôi nổi
đi tìm anh, chợt cao vút lên trời
trước mặt anh có biết bao cánh cửa
mở toang ra cho anh bước vào đời. 

Trong giờ tăm tối nhất, người yêu ơi
em hãy cất lên tiếng cười rộn rã
và nếu bỗng nhiên em nhìn thấy rõ
rằng dòng máu nóng của anh
rơi trên từng viên đá trên đường phố
thì em ơi hãy cười lên khi đó
vì tiếng cười của em sẽ trở thành
thanh kiếm sắc ở trong tay anh đó. 

Vào mùa thu em đi về biển cả
thì em nhớ nhé hãy cười lên
tiếng cười em như bọt nước thác tràn
còn khi mùa xuân về, em yêu ạ
anh muốn tiếng cười của em rộn rã
như bông hoa mà anh vẫn chờ mong
những bông hoa màu xanh, những bông hồng
những bông hoa miền quê anh rộn rã. 

Trong đêm tối hãy cười lên em nhé
giữa ánh sáng ngày, dưới ánh trăng thanh
cả những khi trên những con đường cong
lượn vòng quanh trên những hòn đảo nhỏ
em cứ việc cười cả cái chàng trai trẻ
dù vụng về, chàng trai đó yêu em
nhưng mỗi khi anh mở mắt ra nhìn
rồi sau đó đôi mắt anh nhắm lại
khi bước chân anh đi ra thiên hạ
rồi lại quay về những bước chân anh
cứ lấy đi cả ánh sáng, mùa xuân
cứ lấy đi cả bánh mì, không khí
nhưng đừng lấy đi tiếng cười của em
đừng bao giờ - không thì anh chết đó.  



Tu Risa

Quitame el pan si quieres,
quitame el aire, pero
no me quites tu risa.

No me quites la rosa,
la lanza que desgranas,
el agua que de pronto
estalla en tu alegria,
la repentina ola
de planta que te nace.

Mi lucha es dura y vuelvo
con los ojos cansados
a veces de haber visto
la tierra que no cambia,
pero al entrar tu risa
sube al cielo buscandome
y abre para mi
todas las puertas de la vida.

Amor mio, en la hora
mas oscura desgrana
tu risa, y si de pronto
ves que mi sangre mancha
las piedras de la calle,
rie, porque tu risa
sera para mis manos
como una espada fresca.

Junto al mar en otono,
tu risa debe alzar
su cascada de espuma,
y en primavera, amor,
quiero tu risa como
la flor que yo esperaba,
la flor azul, la rosa
de mi patria sonora.

Riete de la noche,
del dia, de la luna,
riete de las calles
torcidas de la isla,
riete de este torpe
muchacho que te quiere,
pero cuando yo abro
los ojos y los cierro,
cuando mis pasos van,
cuando vuelven mis pasos,
niegame el pan, el aire,
la luz, la primavera,
pero tu risa nunca
porque me moriria.


Poema 15


 Hai mươi bài thơ tình và một bài ca tuyệt vọng (1924)

Poema 15

Tôi yêu sự im lặng vì không có em bên mình
Vì em ở xa xôi lời tôi không thể đến
Dường như đôi mắt em đang bay trên đôi cánh
Và dường như nụ hôn này khép lại môi em.

Bao sự vật ở đời đang chất chứa trong lòng
Hồn của tôi tràn đầy, em bước ra từ đó
Như hồn tôi, em như giấc mơ con bướm nhỏ
Và em giống như những từ ngữ u buồn.

Tôi yêu sự im lặng vì em ở xa xăm
Lời than phiền như lời ru con bướm
Vì em ở xa xôi lời tôi không thể đến
Hãy để tôi im lặng cùng sự im lặng của em. 

Hãy để tôi chuyện trò với im lặng của em
Sáng tỏ như ngọn đèn, giản đơn như chiếc nhẫn.
Em như bầu trời đêm đầy sao và im ắng
Im lặng như sao trời, giản dị, thật xa xăm. 

Tôi yêu sự im lặng vì không có em bên mình
Xa cách và đau buồn như là em đã chết
Một lời nói lúc này, một nụ cười đủ biết
Cho tôi mừng vì em không chết thật nghe em.

Poema 15

Me gustas cuando callas porque estás como ausente,
y me oyes desde lejos, y mi voz no te toca.
Parece que los ojos se te hubieran volado
y parece que un beso te cerrara la boca.

Como todas las cosas están llenas de mi alma
emerges de las cosas, llena del alma mía.
Mariposa de sueño, te pareces a mi alma,
y te pareces a la palabra melancolía;

Me gustas cuando callas y estás como distante.
Y estás como quejándote, mariposa en arrullo.
Y me oyes desde lejos, y mi voz no te alcanza:
déjame que me calle con el silencio tuyo.

Déjame que te hable también con tu silencio
claro como una lámpara, simple como un anillo.
Eres como la noche, callada y constelada.
Tu silencio es de estrella, tan lejano y sencillo.

Me gustas cuando callas porque estás como ausente.
Distante y dolorosa como si hubieras muerto.
Una palabra entonces, una sonrisa bastan.
Y estoy alegre, alegre de que no sea cierto.



Nữ Hoàng

 


NỮ HOÀNG

Anh gọi em là nữ hoàng

Thực ra là cao hơn em, cao hơn
Thực ra là thanh sạch hơn, sạch hơn
Thực ra là đẹp hơn em, đẹp hơn.
Nhưng nữ hoàng là em.

Khi em đi trên đường phố
Ai cũng ngước mắt nhìn
Không thấy vương miện pha lê trong
Và thảm bằng vàng tấm
Nhưng nơi em đặt bàn chân đến
Thảm ấy không cần.

Em cứ ngỡ rằng
Trong người anh
Mọi con sông trên đời đang hát
Và trên trời tiếng chuông gióng lên
Một bài ca bay trên mặt đất.

Nhưng chỉ em và anh
Chỉ anh và em, hai đứa
Có thể nghe ra bài hát này.


La Reina

Yo te he nombrado reina.
Hay más altas que tú, más altas.
Hay más puras que tú, más puras.
Hay más bellas que tú, hay más bellas.
Pero tú eres la reina.

Cuando vas por las calles
nadie te reconoce.
Nadie ve tu corona de cristal, nadie mira
la alfombra de oro rojo
que pisas donde pasas,
la alfombra que no existe.

Y cuando asomas
suenan todos los ríos
en mi cuerpo, sacuden
el cielo las campanas,
y un himno llena el mundo.

Sólo tú y yo,
sólo tú y yo, amor mío,
lo escuchamos.

Farewell


 FAREWELL

1
Từ trong sâu thẳm nhìn vào mắt em
Những ước mơ chưa trở thành hiện thực

Vì cuộc đời này ta đem hoà nhập
Cuộc đời của anh và của em.

Vì những bàn tay này, những bàn tay của ta
Ta hãy học cách xây và phá bỏ

Vì những đôi mắt này em hãy chùi giọt lệ
Dù lệ không còn, sẽ đau đớn gấp ba.

2
Những điều này không cần nữa đâu em


Mặc cho hai ta không còn giữ gìn
Cái sức mạnh từng bắt hai chúng mình làm một.

Không phải lời mà em thoáng nghĩ ra
Không phải điều mà bằng lời không tả được

Không phải cơn bão lòng, thuở trước
Không phải bờ mi em run rẩy phút chia xa.

3
Anh thích tình yêu của những người đi biển
Gặp gỡ rồi chia xa

Họ hứa hẹn sẽ quay về
Nhưng họ không về, em có thấy

Và bến tàu – như cô gái
Vẫn mong rằng họ sẽ về mau

Nhưng ngoài biển khơi, nơi con sóng bạc đầu
Họ lấy cho mình cái chết.

4
Anh thích tình yêu, nơi hai người sẻ chia
Bánh mì và nơi ngủ trọ.

Tình yêu cho một thời gian
Hay tình yêu muôn thuở.

Tình yêu là sự nổi loạn ở trong tim
Chứ không phải là con tim tê liệt.

Tình yêu, có tình yêu bắt kịp
Và có tình yêu không bắt kịp bao giờ.

5
Mắt anh không còn uống đã ánh mắt em
Nỗi đau ngày nào trong tim không thành sẹo


Nhưng dù ở đâu, anh vẫn thấy mắt em nhìn
Và nỗi đau anh vẫn theo em khắp mọi nẻo.

Em đã từng của anh. Anh đã từng của em
Nghĩa là ta đã từng sống trong tình.

Anh đã từng của em. Em đã từng của anh
Khi em yêu người khác. Kẻ đó là người tình.

Anh từ giã buồn đau. Nhưng muôn đời đau khổ
Từ nơi gặp gỡ của chúng mình anh chẳng biết sẽ về đâu?

Vĩnh biệt! Một giọng nói thủ thỉ trong tim
Và anh cũng nhủ lòng: vĩnh biệt!



FAREWELL

1
DESDE el fondo de ti, y arrodillado,
un niño triste, como yo, nos mira.

Por esa vida que arderá en sus venas
tendrían que amarrarse nuestras vidas.

Por esas manos, hijas de tus manos, 
tendrían que matar las manos mías.

Por sus ojos abiertos en la tierra
veré en los tuyos lágrimas un día.

2
YO NO lo quiero, Amada.

Para que nada nos amarre
que no nos una nada.

Ni la palabra que aromó tu boca,
ni lo que no dijeron las palabras.

Ni la fiesta de amor que no tuvimos,
ni tus sollozos junto a la ventana.

3
(AMO el amor de los marineros
que besan y se van.

Dejan una promesa.
No vuelven nunca más.

En cada puerto una mujer espera:
los marineros besan y se van.

Una noche se acuestan con la muerte
en el lecho del mar.

4
AMO el amor que se reparte
en besos, lecho y pan.

Amor que puede ser eterno
y puede ser fugaz.

Amor que quiere libertarse
para volver a amar.

Amor divinizado que se acerca
Amor divinizado que se va.)

5
YA NO se encantarán mis ojos en tus ojos,
ya no se endulzará junto a ti mi dolor.

Pero hacia donde vaya llevaré tu mirada
y hacia donde camines llevarás mi dolor.

Fui tuyo, fuiste mía. Qué más? Juntos hicimos 
un recodo en la ruta donde el amor pasó.

Fui tuyo, fuiste mía. Tu serás del que te ame,
del que corte en tu huerto lo que he sembrado yo.

Yo me voy. Estoy triste: pero siempre estoy triste. 
Vengo desde tus brazos. No sé hacia dónde voy.

...Desde tu corazón me dice adiós un niño.
Y yo le digo adiós.

Ở Việt Nam

 


Ở VIỆT NAM
 
Ai đã gây nên chiến tranh?

Từ ngày hôm kia tôi đã nghe thấy nó.

Và tôi sợ.

Chiến tranh vang rền
tựa như đá ném vào tường
như tiếng sấm cùng với máu
như đang chết dần cả núi non.
Thế giới này
tạo ra không phải tôi.
Và không phải bạn.
Thế giới có từ xưa rồi.
Ai đe dọa cuộc đời móng nhọn?
Ai kề dao bên cổ cuộc đời?
Thế giới này chỉ sinh ra, có phải?
Còn ai đi chém giết vì điều này?

người đi xe đạp vô cùng sợ hãi
và vị kiến trúc sư.
Người mẹ nuôi đứa con thơ
trong đất bùn ẩn giấu
người mẹ ngủ trong hang
còn chiến tranh lan tràn
bằng lửa cháy
và những người chết ở đấy
là người mẹ cùng với đứa con.

Họ đã chết trong bùn.

Ôi đau thương!
và kế từ dạo ấy
đến bây giờ họ vẫn sống trong bùn.
Họ bắn súng và hát lên. Lạy Chúa tôi
giá mà nói cho bạn biết điều này
trước khi sáng tạo ra thế giới
giá mà, dù chỉ là lời nói nhỏ bên tai
rằng những người thân yêu nhất của bạn trên đời
cần phải chết khổ đau như vậy
không bao giờ biết được tại vì đâu?!

Chính những kẻ giết người này
sẽ đến giết tôi và bạn
chính những kẻ giết người này
sẽ đến đây đốt bạn và tôi
những kẻ phiêu lưu mạo hiểm hay cười
những kẻ huyênh hoang, rối rắm
sẽ bay đến đây
hủy diệt thế giới này.

Chúng đã bỏ lại trên đồng
máu của mẹ, cha, của những đứa con
bạn hãy đi tìm trong đó
xương và máu của mình
lẫn trong bùn đất của Việt Nam.
Bạn hãy tìm giữa đống xương người lạ
bị thiêu cháy, bây giờ chẳng của riêng ai
của tất cả mọi người
của chúng ta – của tôi và bạn
bạn hãy đi tìm
trong cái chết này cái chết của mình
bởi những kẻ giết người rồi sẽ săn lùng bạn
mang đến cho bạn cái chết trong bùn.

 
EN VIETNAM

 ¿ Y quién hizo la guerra?
Desde anteayer está sonando.
Tengo miedo.
 Suena como una piedra 
contra el muro,
como un trueno con sangre,
como un monte muriendo:
es el mundo
que yo no hice.
Que tú no hiciste.
Que hicieron.
Quién lo amenaza con dedos terribles?
Quién quiere degollarlo?
Verdad que parecía estar naciendo ?
Y quién lo mata ahora porque nace?
 
Tiene miedo el ciclista
el arquitecto
Se esconde la mamá con su nino y sus senos,
en el barro.
Duerme en la cueva esta mamá y de pronto
laguerra,
viene grande la guerra,
viene llena de fuego
y ya quedaron muertos,
la marde con su leche y con su hijo.
 
Murieron en el barro.
 
Oh dolor, desde entonces
hasta ahora
hay que estar con el barro
hasta las sienes
cantando y disparando? Santo Dios!
Si te lo hubieran dicho
antes de ser, anten de casi ser,
sipor lo menos
te hubieran susurrado
que tus parientes o tus no parientes,
hijo de aquella risa del amor,
hijo de esperma humana,
y de aquella fragancia
a nuevo lunes y a camisa fresca
tenian que morir tan repentiamente
y sin saber jamás de qué se trata!
 
Son los mismos
que vienen a matarnos,
sí, son los mismos
que vendrán a quemarmos,
sí, los mismos,
los ganancio sos y los jactanciosos
los sonrientes que jugaban tanto
y que ganaban tanto,
ahora
por el aire
vienen, vendrán, vinieron,
a matarnos el mundo.
 
Han dejado una charca
de parde, madre e hijo:
busquemos
en ella,
busca tus propios huesos y tu sangre,
búscalos en el barro de Vietnam,
búscalos entre otros tantos huesos:
ahora quemados ya no son de nadie,
son de todos,
son nuestros huesos, busca
tu muerte en esa muerte,
porque estan acechandote los mismos
y te destinan a ese mismo barro.


Bài thơ đầu tiên của tôi

      TÔI XIN THÚ NHẬN RẰNG TÔI ĐÃ SỐNG  (Confieso que he vivido) Bài thơ đầu tiên của tôi Bây giờ tôi sẽ kể câu chuyện về các loài chim. Tr...